Thứ Ba, 9 tháng 4, 2013

quạt hút công nghiệp , bán quat hut cong nghiep giá rẻ , báo gia quat hut

  aa

quạt hút , báo giá bán quat hut giá rẻ

quạt hút , báo giá bán quat hut giá rẻ

quạt hút , báo giá bán quat hut giá rẻ

quạt hút , báo giá bán quat hut giá rẻ

 

Lào Cai: Đẩy mạnh sản xuất chế biến nông sản

Trong những năm qua, Lào Cai đang từng bước thay đổi diện mạo bức tranh công nghiệp, việc tập trung đầu tư phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (CN-TTCN) đặc biệt là lĩnh vực công nghiệp nông thôn (CNNT) đang từng ngày được đẩy mạnh.
Một trong những định hướng của Tỉnh là sản xuất hàng hóa kết hợp với công nghệ bảo quản, chế biến và tiêu thụ nhằm đạt năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, tăng khả năng cạnh tranh của nông sản. Trong đó, tập trung đầu tư phát triển một số nhóm sản phẩm chủ lực có giá trị kinh tế cao, khối lượng hàng hoá lớn, vùng sản xuất tương đối tập trung (lúa, ngô, chè, rau an toàn, cây ăn quả ôn đới, gia súc, gia cầm, cá nước lạnh...).
 Lào Cai là một trong những tỉnh khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp với nhiều loại cây nông nghiệp, cho sinh trưởng, phát triển tốt và năng suất cao như: lúa, ngô, khoai, sắn, gừng, tỏi, hành, ớt... nhưng đa số những loại nông sản lại tập trung thu hoạch theo thời vụ nên khi đến thời vụ thì sản lượng nhiều, nhu cầu tiêu thụ của thị trường không đáp ứng được dẫn đến giá thành hạ, hiệu quả kinh tế thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế nhà nông.
 Xuất phát từ thực tế trên, các nhà đầu tư tại Lào Cai đã mạnh dạn đầu tư các nhà máy, phân xưởng sản xuất và chế biến nông sản với công nghệ tiên tiến, hiện đại đáp ứng nhu cầu chế biến nông sản sau thu hoạch cho bà con nông dân. Từ đây nông sản sau khi thu hoạch sẽ được thu mua và chế biến thành phẩm có thể bảo quản được lâu, giữ được giá thành. Tại Lào Cai hiện có HTX Hoa Lợi chuyên sản xuất tương ớt Mường Khương và Công ty TNHH thương mại Hoa Lợi cũng có nhà máy sản xuất chế biến nông sản hoạt động rất hiệu quả.
 Nhận thấy đây là những mô hình sản xuất điển hình, có tiềm năng kinh tế cao và có khả năng nhân rộng trên địa bàn tỉnh, giữa năm 2012, Trung tâm khuyến công, Tư vấn phát triển công nghiệp và Tiết kiệm năng lượng tỉnh Lào Cai phối hợp với Công ty TNHH thương mại Hoa Lợi lập Đề án xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất chế biến nông sản xuất khẩu và phối hợp với HTX Hoa Lợi thành lập đề án chế biến tương ớt Mường Khương với mục đích khuyến khích nhân rộng mô hình sản xuất ra các huyện, thành phố trên địa bàn.
 Ngày 02/11/2012, Bộ Công Thương đã phê duyệt và giao bổ sung kế hoạch kinh phí khuyến công quốc gia năm 2012 (đợt 3) tại Quyết định số 6536/QĐ-BCT cho Trung tâm Khuyến công Lào Cai là 380 triệu để thực hiện 02 đề án, bao gồm: Xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất chế biến nông sản xuất khẩu và Xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất tương ớt Mường Khương.Ngày 27/11/2012 và ngày 30/11/2012, Trung tâm Khuyến công, Tư vấn phát triển công nghiệp và Tiết kiệm năng lượng tỉnh Lào Cai đã phối hợp với 2 đơn vị tổ chức 2 Hội nghị giới thiệu Mô hình sản xuất chế biến nông sản xuất khẩu và Mô hình sản xuất tương ớt Mường Khương.
 Với chính sách hỗ trợ từ nguồn vốn khuyến công quốc gia, năm 2012 Trung tâm Khuyến công, Tư vấn phát triển công nghiệp và Tiết kiệm năng lượng tỉnh Lào Cai đã lập đề án và hỗ trợ được cho 07 đơn vị sản xuất TTCN trên địa bàn tỉnh. Từ chính sách hỗ trợ khuyến công của Nhà nước, nhiều cơ sở, doanh nghiệp sản xuất TTCN trên địa bàn tỉnh đã giải quyết được một phần khó khăn về nguồn vốn đầu tư, mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ... góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, doanh thu của doanh nghiệp và tạo việc làm ổn định cho người lao động trong tỉnh .



Hà Đoan - TTKC

Nhiều tín hiệu vui trong sản xuất công nghiệp

Thứ trưởng Bộ Công Thương Hồ Thị Kim Thoa đã chủ trì buổi họp báo trực tuyến thường kỳ tháng 2 tại đầu cầu Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh nhằm thông báo và giải đáp các thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh của ngành Công Thương, công tác quản lý thị trường, hoạt động xuất, nhập khẩu.

Nhiều tín hiệu vui trong sản xuất công nghiệp

Tính chung 2 tháng, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành công nghiệp khai khoáng tăng 1,8%, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,9%, ngành sản xuất, phân phối điện tăng 11,7% và ngành cung cấp nước và xử lý nước thải, rác thải tăng 9,9%. Những ngành công nghiệp có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ năm trước gồm: khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên tăng 4,0%; sản xuất bia tăng 14,5%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 18,9%; sản xuất giày dép tăng 35,9%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm từ hóa chất tăng 24,0%; sản xuất xi măng tăng 19,4%; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ thạch cao tăng 25,2%; sản xuất thiết bị điện tăng 20,8% v.v…Tuy nhiên, một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ năm trước gồm: khai thác và thu gom than cứng giảm 5,7%; sản xuất vải dệt thoi giảm 3,9%; sản xuất linh kiện điện tử giảm 4,0%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng giảm 12,7%; sản xuất mô tơ, máy phát, biến thế điện, thiết bị phân phối và điều khiển điện giảm 24,2%; sản xuất xe có động cơ giảm 11,4%...
Đáng lưu ý, mặc dù là tháng tiêu thụ mạnh của các sản phẩm chế biến nhưng chỉ số tồn kho của ngành chế biến, chế tạo giảm không đáng kể so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số tồn kho tại thời điểm 01/02/2013 của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 19,9% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó, những ngành có chỉ số tồn kho cao như: sản xuất đường tăng 28,0%; sản xuất bia tăng 49,4% (tuy nhiên, những ngày sát Tết Nguyên đán tiêu thụ bia tăng mạnh); sản xuất thuốc lá tăng 49,0%; sản xuất hàng may sẵn (trừ trang phục) tăng 25,2%; sản xuất trang phục tăng 27,0%; sản xuất giầy, dép tăng 31,9%; sản xuất giấy nhăn, bìa nhăn, bao bì từ giấy và bìa tăng 33,7%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ tăng 58,1%; sản xuất mỹ phẩm, xà phòng, chất tẩy rửa, làm bóng và chế phẩm vệ sinh tăng 30,7% v.v…
Bên cạnh những tín hiệu vui trong sản xuất công nghiệp thì hoạt động thương mại cũng có nhiều nét ấn tượng. Tính chung 2 tháng, kim ngạch xuất khẩu ước đạt hơn 18,97 tỷ USD, tăng 23,9% so với cùng kỳ, trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt hơn 11,0 tỷ USD, tăng 27,5%.
Về nhập khẩu tính chung 2 tháng, kim ngạch nhập khẩu ước đạt gần 17,3 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ, trong đó: kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 8,06 tỷ USD, tăng 7,2%, chiếm tỷ trọng 46,6%; kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt gần 9,24 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 53,4% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Theo ông Võ Văn Quyền, Vụ trưởng Vụ thị trường trong nước, nhờ thực hiện tốt công tác quản lý nên tình hình cung cầu, giá cả trên thị trường cả nước thời gian trước Tết, trong Tết và những ngày sau Tết tương đối ổn định. Giá cả các mặt hàng tiêu dùng cũng không biến động nhiều như mọi năm. Nguồn cung hàng hóa đa dạng, dồi dào. Vì vậy, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội tháng 02 ước đạt trên 210 nghìn tỷ đồng, chỉ xấp xỉ bằng tháng 01. So với cùng kỳ năm trước, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội 2 tháng ước đạt 422,2 nghìn tỷ đồng, tăng 10,9%, trong đó: nhóm thương nghiệp tăng 10,4% và chiếm tỷ trọng 77,7%; nhóm khách sạn nhà hàng tăng 13,0% và chiếm tỷ trọng 11,6%; nhóm du lịch giảm 4,4% và chiếm tỷ trọng 0,8%; nhóm dịch vụ tăng 14,5% và chiếm tỷ trọng 9,9%. Nếu loại bỏ yếu tố tăng giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa 2 tháng đầu năm chỉ tăng 3,6% so với cùng kỳ.
Tiếp tục tăng cường tháo gỡ khó khăn
Tổng kết buổi họp báo, đồng thời đề ra các biện pháp thực hiện trong tháng 3, Thứ trưởng Hồ Thị Kim Thoa cho rằng, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành Công Thương là tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn để tăng sản xuất. Theo đó, các biện pháp cần thực hiện đó là:
Khai thác tốt năng lực sản xuất và nhu cầu thị trường trong nước, củng cố hệ thống phân phối để sản phẩm đến tay người tiêu dùng ở mức giá thấp nhất nhằm giải quyết hàng tồn kho và thúc đẩy sản xuất; chủ động đề xuất các biện pháp cụ thể nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp; tiếp tục đẩy mạnh cải tiến công nghệ, sử dụng nguyên liệu, vật tư, máy móc, thiết bị trong nước đã sản xuất được để giảm chi phí, góp phần giảm nhập siêu; sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng, tài nguyên nhằm tăng hiệu quả đầu tư và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Tập trung kiềm chế lạm phát, theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả các mặt hàng thiết yếu, chủ động và linh hoạt trong điều tiết cung cầu và bình ổn thị trường, bình ổn giá; thực hiện các chính sách kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu mặt hàng không thiết yếu, hàng tiêu dùng xa xỉ, góp phần kiềm chế nhập siêu; tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động buôn bán, tàng trữ, vận chuyển hàng lậu, hàng giả, hàng cấm, gian lận thương mại và mậu dịch biên giới và kiểm tra, xử lý vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm trong những dịp lễ hội đầu năm; đẩy mạnh triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn trong lưu thông hàng hóa, bảo đảm cân đối cung cầu, an sinh xã hội.
Theo dõi sát sao, cập nhật tình hình diễn biến giá cả thị trường thế giới tiến độ xuất khẩu các mặt hàng lên Cổng thông tin điện tử của Bộ; có biện pháp hỗ trợ kịp thời, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và doanh nghiệp xuất khẩu.
Tích cực và chủ động đẩy mạnh việc thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến thương mại trong và ngoài nước, nhất là xúc tiến thương mại biên giới, hải đảo.
 
Moit. gov.vn

Sản xuất công nghiệp quý I: Tín hiệu tốt cho sự phục hồi

Ngày 01/04/2013, Thứ trưởng Hồ Thị Kim Thoa đã chủ trì buổi họp báo thường kỳ tháng 3 nhằm tổng kết tình hình hoạt động ngành Công Thương quý I năm 2013. Nhiều tín hiệu tốt và khả quan từ tình hình sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, tình hình buôn lậu xăng dầu qua biên giới, việc điều chỉnh giá xăng dầu và nguồn cung cấp điện là những vấn đề trọng tâm được quan tâm nhiều nhất.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, quý I năm 2013, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 4,9%. Trong đó: ngành công nghiệp khai khoáng tăng 2,1%, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,4%, sản xuất và phân phối điện tăng 8,5%, cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,5%.

Tính đến hết tháng 2 năm 2013, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 4,1% so với mức tăng của cùng kỳ, trong đó tăng chủ yếu ở nhóm hàng chế biến thuỷ sản, bơ, sữa, đồ uống, đồ điện tử, sản xuất trang phục, sản xuất da, dệt và nhóm hàng hoá chất, mỹ phẩm, xà phòng chất tẩy rửa... Những nhóm hàng có chỉ số tiêu thụ giảm so với cùng kỳ là giấy nhăn và bao bì, vật liệu xây dựng, sản xuất gang, thép, sắt, xe có động cơ, thiết bị điện, bàn ghế giường tủ.

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, tình hình sản xuất công nghiệp trong những tháng tới sẽ khả quan hơn với các yếu tố như: Bắt đầu từ tháng 2, các doanh nghiệp trong nước có xu hướng gia tăng nhập khẩu nguyên vật liệu, đây có thể coi là tín hiệu tốt cho sự hồi phục của sản xuất; Nhiều sản phẩm như: sản xuất điện, sản xuất hàng thiết bị điện, điện lạnh, sản xuất đồ uống... mức tiêu thụ tăng khi bắt đầu bước vào mùa hè, dẫn đến sản xuất tăng; Các chính sách hỗ trợ của nhà nước bắt đầu có tác dụng sẽ là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng của thị trường các mặt hàng vật liệu xây dựng, sắt thép, xi măng, đá, cát sỏi, v.v... Các nhóm hàng dệt may, da giầy, linh kiện điện tử đã có đơn hàng ổn định, nhu cầu khách hàng vẫn tăng... là những yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển.
Xuất nhập khẩu đạt kết quả tích cực
Tổng kim ngạch xuất khẩu (KNXK) quý I năm 2013 ước đạt 29,68 tỉ USD, tăng 19,7% so với cùng kỳ năm 2012 (tương đương với tăng 4,88 tỷ USD), trong đó KNXK của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước ước đạt 10,4 tỷ USD, chiếm 35% tổng KNXK của cả nước, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm ngoái; KNXK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 19,25 tỷ USD, chiếm 65% tổng KNXK của cả nước, tăng 25,6%, nếu không kể dầu thô KNXK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 17,36 tỷ USD tăng 27,1% so với cùng kỳ năm 2012.
Trong đó, Nhóm hàng nông lâm thủy sản quý I năm 2013 xuất khẩu ước đạt 4,7 tỷ USD, chiếm 15,8% trong tổng KNXK, giảm 0,3% so với cùng kỳ tương đương với giảm 16 triệu USD. Nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản quý I năm 2013 ước đạt 2,6 tỷ USD, chiếm 8,8% trong tổng KNXK, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm 2012, tương đương với tăng 32 triệu USD. Nhóm hàng công nghiệp chế biến quý I năm 2013 ước đạt gần 20,7 tỷ USD, chiếm 69,7% trong tổng KNXK, tăng 31,8% so với cùng kỳ năm 2012, tương đương với tăng hơn 4,9 tỷ USD.
Trong khi đó, tổng kim ngạch nhập khẩu (KNNK) hàng hoá quý I năm 2013 ước đạt 29,2 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2012. Kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 16,1 tỷ USD, tăng 25,5%, chiếm tỷ trọng 55,5% tổng KNNK cả nước; Kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước ước đạt hơn 13 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 44,5% tổng KNNK cả nước, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm 2011. Nhập khẩu hàng hoá quý I năm 2013 của nhóm hàng cần nhập khẩu tăng 15,2% so với cùng kỳ, chủ yếu tập trung vào nhóm các mặt hàng cần nhập khẩu, là nguyên liệu cho sản xuất. Những mặt hàng tính được về lượng nhập khẩu tăng cao là hạt điều, dầu thô, phân bón các loại, bông các loại, giấy các loại, kim loại thường, ô tô nguyên chiếc các loại.
Về cán cân thương mại: Tháng 3 nhập siêu khoảng 300 triệu USD, tính chung cả quý I xuất siêu 482 triệu USD, trong đó, khối các doanh nghiệp trong nước nhập siêu hơn 2,6 tỷ USD, khối các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu hơn 3,1 tỷ USD.
Trả lời các câu hỏi của báo chí về vấn đề trên, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu nhấn mạnh: trong bối cảnh hiện nay, xu hướng tăng nhập khẩu có thể xem là yếu tố phục hồi sản xuất, tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu về giảm dần nhập siêu, các biện pháp nhằm hạn chế nhập siêu vẫn cần được duy trì. Liên quan đến vấn đề xuất khẩu gạo, ông Hải cũng cho biết, Bộ Công Thương đang có hướng kiến nghị Chính phủ điều chỉnh quy hoạch đầu mối xuất khẩu gạo thay cho việc ấn định số lượng, đồng thời quy định bằng biện pháp kỹ thuật. Bộ Công Thương sẽ chủ trương thực hiện biện pháp nâng cao năng lực của thương nhân xuất khẩu gạo bằng các biện pháp kỹ thuật như: địa bàn hoạt động, kho chứa, điều kiện cơ sở xay xát, v.v…. Các thương nhân sẽ được cấp phép xuất khẩu gạo khi đáp ứng đủ các điều kiện trên.
Xung quanh việc điều chỉnh giá xăng dầu, ông Võ Văn Quyền, Vụ trưởng Vụ thị trường trong nước cho biết: “Không có chuyện để chống buôn lậu xăng dầu trong nước qua biên giới nên tăng giá xăng. Tùy vào tình hình kinh tế xã hội trong nước để có sự điều hành về kinh doanh xăng dầu”.
Theo ông Quyền, trong tháng 02 năm 2013, các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đã kiến nghị tăng giá bán lẻ xăng dầu trong nước do giá dầu thế giới thời gian trước có chiều hướng tăng khiến cho giá bán lẻ xăng dầu trong nước hiện hành thấp hơn giá cơ sở và thấp hơn giá bán lẻ xăng dầu của một số nước trong khu vực. Để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định chưa tăng giá bán lẻ xăng dầu trong nước mà tiếp tục sử dụng quỹ Bình ổn giá và các biện pháp tài chính khác để ổn định giá bán lẻ xăng dầu trong nước. Hiện giá xăng dầu thế giới tuy có giảm, nhưng vẫn ở mức cao; trong khi, quỹ Bình ổn giá xăng dầu của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đã hết; giá trong nước thấp hơn giá của các nước có chung đường biên giới với Việt Nam từ 2.000 đồng/lít đến trên 5.000 đồng/lít dẫn đến tình trạng buôn lậu xăng dầu diễn ra rất phức tạp. Chính phủ đã quyết định tăng giá bán từ ngày 28 tháng 3 năm 2013, theo đó, giá xăng tăng tối đa 1.430 đồng/lít, dầu diesel tăng 362 đồng/lít, dầu hỏa tăng 480 đồng/lít, và dầu madut tăng 807 đồng/kg. Ước lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 3 năm 2013 đạt 600 nghìn tấn, tương đương 584 triệu USD, tăng 23% so với tháng trước. Lượng nhập khẩu 3 tháng năm 2013 đạt 1.577 nghìn tấn, giảm 25% so với cùng kỳ năm 2012. Lượng dầu thô xuất khẩu tháng 3 ước đạt 780 nghìn tấn, tương đương 670 triệu USD, tăng 22,5% so với tháng trước. Quý I năm 2013 xuất khẩu dầu thô đạt 2.117 nghìn tấn, tăng 22,5% so với cùng kỳ năm 2012.
Liên quan đến câu hỏi: “việc tăng giá xăng dầu có được thông báo trước hay không?”, ông Quyền khẳng định: “Hiện nay các quy định về việc báo cáo điều chỉnh tăng giảm giá, tài liệu các cơ quan trao đổi đều là tài liệu mật để tránh tình trạng chúng ta càng công khai thông tin bao nhiêu thì một số cá nhân đã lợi dụng bấy nhiêu để làm rúng động thị trường, gom hàng, đầu cơ, tạo sự khan hiếm”.
Về việc sửa đổi Nghị định số 84/2009/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu của Chính phủ, ông Võ Văn Quyền cũng cho biết, Văn phòng Chính phủ đã có thông báo về việc Bộ Công Thương phải trình Nghị định sửa đổi bổ sung Nghị định 84 chậm nhất trước ngày 30/6/2013. Hiện tại, Bộ Công Thương đã tiến hành lập ban soạn thảo, tổ biên tập khảo sát, chuẩn bị những thủ tục, chỉ đạo và tiếp thu ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, báo chí, lấy ý kiến trên website của Bộ nhằm mục đích, khi Nghị định mới ra đời sẽ minh bạch hơn và công khai hơn thị trường xăng dầu.

Đảm bảo cung ứng điện ổn định cho sản xuất

Theo ông Đặng Huy Cường, Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực, tính đến ngày 01/04, lượng điện sản xuất toàn hệ thống điện quốc gia là 29,9824 kWh tăng 10,42% so với cùng kỳ. Trong 3 tháng đầu năm, về cơ bản tình hình cung ứng điện đáp ứng đầy đủ cho tình hình sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của người dân. Theo dự kiến trong tháng 4 đến tháng 6, sản lượng điện của toàn hệ thống là 34,35 tỷ kWh tăng 11% so với cùng kỳ năm 2012. Cũng theo tính toán của Tập đoàn điện lực Việt Nam, trong 3 tháng tới tình hình cung ứng điện cơ bản đáp ứng đủ cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh tế và sinh hoạt. Bộ Công Thương đã chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Than - Khoáng sản, Tập đoàn Dầu khí phải đảm bảo ổn định, vận hành tin cậy liên tục và xác định thời điểm phù hợp, nếu cần thì sẽ huy động các nguồn chạy dầu để đáp ứng đủ điện. Về câu hỏi “Trong thời gian tới, liệu sẽ có việc điều chỉnh giá điện hay không?”, ông Cường khẳng định: “Ít nhất trong tháng 4, Bộ Công thương chưa nhận được đề xuất nào của Tập đoàn Điện lực Việt Nam về việc điều chỉnh giá điện”.

Tiếp tục triển khai quyết liệt Nghị quyết số 01/NQ-CP

Tổng kết buổi họp báo, Thứ trưởng Hồ Thị Kim Thoa đề nghị các doanh nghiệp, các Sở Công Thương và các đơn vị trực thuộc Bộ cần tiếp tục triển khai một cách quyết liệt hơn các giải pháp đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07 tháng 01 năm 2013 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013 và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07 tháng 01 năm 2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu; cụ thể là triển khai thực hiện tốt Chương trình hành động của Bộ Công Thương tại Quyết định số 320/QĐ-BCT ngày 17 tháng 01 năm 2013 và Chỉ thị số 02/CT-BCT ngày 17 tháng 01 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Công Thương; đồng thời thực hiện tốt các nhiệm vụ:

Về sản xuất công nghiệp: Rà soát, hoàn thiện quy hoạch các ngành, lĩnh vực, tập trung giám sát chặt chẽ tiến độ các dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án trọng điểm chậm tiến độ và các dự án có khả năng hoàn thành trong năm; Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất để đảm bảo cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt Tập đoàn Điện lực Việt Nam cần tích cực phối hợp với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam và các nhà sản xuất điện khác nhằm huy động tối đa công suất các nhà máy điện để đáp ứng tối đa cho nhu cầu phụ tải điện trong mùa khô; Các doanh nghiệp tiếp tục nghiên cứu đẩy mạnh hoạt động cải tiến công nghệ, tăng cường quản lý, nghiên cứu sử dụng nguyên liệu (đối với hoạt động sản xuất) và các máy móc thiết bị (đối với các dự án đầu tư) đã sản xuất được trong nước để giảm chi phí, hạ giá thành và tăng hiệu quả đầu tư kinh doanh; Tiếp tục theo dõi sát tình hình sản xuất kinh doanh của các ngành, phối hợp tốt với các Hiệp hội trong việc tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh, giảm lượng tồn kho, tiếp cận tín dụng... để khôi phục sản xuất.

Về xuất nhập khẩu: Tăng cường xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu, không để lệ thuộc quá lớn vào một thị trường. Triển khai thực hiện tốt Chương trình Xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 1 nhằm tìm kiếm, mở rộng, khai thông thị trường đối với các mặt hàng nông sản, thuỷ sản và các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu. Phổ biến kịp thời thông tin thị trường; sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật'; Theo dõi sát sao, cập nhật tình hình diễn biến giá cả, tiến độ xuất khẩu các mặt hàng, những biến động của thị trường thế giới để kịp thời có các biện pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, thực hiện tốt việc mua tạm trữ hàng hoá để giữ giá xuất khẩu, hỗ trợ doanh nghiệp về vốn, đáo hạn ngân hàng...góp phần thúc đẩy xuất khẩu; Tiếp tục phối hợp với các Hiệp hội ngành hàng (Dệt may, đồ gỗ, cà phê, gạo, thủy sản) và các doanh nghiệp để thực hiện các biện pháp tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kịp thời nắm bắt thông tin, tình hình, kiến nghị từ các Hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp để có hướng giải quyết;Ưu tiên cấp tín dụng, bảo đảm đủ vốn cho nông dân và doanh nghiệp mua gom nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu. Khuyến khích doanh nghiệp đa dạng hóa ngoại tệ trong giao dịch. Có quy chế để ngân hàng thương mại bảo đảm lãi suất cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu vay theo quy định, không phát sinh thêm chi phí; Tích cực tham gia đàm phán các Hiệp định thương mại tự do để tạo thị trường cho xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam: Hiệp định TPP, Hiệp định Việt Nam - EU, Hiệp định Việt Nam - EFTA, Hiệp định Việt Nam - Hàn Quốc và Hiệp định FTA giữa Việt Nam và Liên Minh thuế quan gồm Nga, Belarus và Cazakhstan.

Kiểm soát nhập khẩu: Tiếp tục triển khai thực hiện chế độ cấp giấy phép nhập khẩu tự động đối với một số sản phẩm thép trong nước đã sản xuất được, một số mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu để góp phần quản lý nhập khẩu, tăng cường tiêu thụ sản phẩm trong nước; Tiếp tục tăng cường quản lý chặt chẽ hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu và gửi kho ngoại quan để ngăn chặn gian lận thương mại và trốn thuế thông qua việc tiếp tục triển khai Chỉ thị 23/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 07 tháng 9 năm 2012 và đẩy mạnh thông tin tới doanh nghiệp vể Thông tư số 05/TT-BCT của Bộ Công Thương ngày 18 tháng 02 năm 2013 quy định về hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất một số mặt hàng sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 04 tháng 4 năm 2013; Đối với kinh tế biên mậu: Xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để một mặt thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, một mặt kiểm soát chặt chẽ lượng hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia láng giềng, trong đó chú trọng về các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng; Tăng cường công tác hậu kiểm về chất lượng, an toàn vệ sinh đối với sản phẩm nhập khẩu và lưu thông theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn; thực hiện các biện pháp kỹ thuật nhằm bảo vệ người tiêu dùng và tạo hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu, kiểm soát việc nhập nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, v.v...

Về Thị trường nội địa: Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương theo dõi sát diễn biến cung cầu hàng hóa, giá cả, thị trường trong nước, nhất là các mặt hàng thiết yếu; đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát thực hiện quy định về đăng ký giá, kê khai giá và việc chấp hành theo quy định của pháp luật về quản lý giá; Tiếp tục tăng cường công tác chống buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, kiên quyết xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm. Rà soát và gia tăng các chế tài xử phạt đối với các hành vi gian lận thương mại; đầu cơ; sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến lĩnh vực thương mại, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh; Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại thị trường nội địa, thị trường miền núi, hỗ trợ các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, giảm hàng tồn kho, đổi mới hệ thống thu mua, tiêu thụ, đưa hàng hóa về nông thôn, vùng biên giới, hải đảo... nhằm hưởng ứng cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; Nghiên cứu cơ chế chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp phát triển hệ thống đại lý phân phối tại các tỉnh, thành phố; chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp phân phối trong việc tham gia cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” để đưa hàng hóa tới vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo; Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, thông tin kịp thời chủ trương, chính sách của Nhà nước, thông tin chính xác diễn biến thị trường đến người tiêu dùng, nhằm tạo sự đồng thuận, hưởng ứng và tham gia tích cực của nhân dân cùng các cơ quan nhà nước trong việc kiểm soát giá cả, không để thông tin sai lệch gây hoang mang, tạo tâm lý bất ổn trong nhân dân.

Về đầu tư xây dựng: Các Tập đoàn, Tổng công ty, Công ty và các đơn vị thuộc Bộ tập trung nguồn lực và sự chỉ đạo để hoàn thành các dự án phải hoàn thành trong năm 2013, góp phần huy động thêm công suất, nhất là các dự án nguồn, lưới điện; Nghiên cứu các hình thức huy động vốn, kể cả phát hành trái phiếu công trình cho những dự án đang chưa thu xếp được vốn; Tổ chức giao ban, điều hành định kỳ hàng tháng với các công trình, dự án trọng điểm của ngành, của đơn vị; Tăng cường năng lực quản lý và điều hành dự án của các Ban quản lý, cơ quan tư vấn để giải quyết nhanh các thủ tục đầu tư.

Nguồn: moit. gov.vn

Giá trị sản xuất công nghiệp tỉnh Bình Dương quý I/2013 tăng 9,1%

Bên cạnh những khó khăn vẫn còn tồn tại, quý I năm 2013, nền kinh tế thế giới nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng đã có dấu hiệu khởi sắc, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hiện có xu hướng thuận lợi hơn. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 nhằm giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu.
Tỷ giá và lạm phát đã ổn định, lãi suất ngân hàng giảm so với cùng kỳ (hiện đang ở mức 12,5 - 13%/ năm), giá nguyên vật liệu ổn định. Các thị trường có dấu hiệu phục hồi, như thị trường Mỹ, EU, Hàn Quốc, v.v… đặc biệt thị trường Nhật Bản mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng nổ lực trong việc tìm kiếm thị trường mới; lực lượng lao động ổn định, tỷ lệ công nhân quay trở lại làm việc sau Tết tương đối cao (đạt tỷ lệ 80 - 95%). Hầu hết các doanh nghiệp đã có đơn hàng đến hết quý II năm 2013, riêng các doanh nghiệp lớn đã có đơn hàng đến cuối năm (Công ty TNHH Nam Bình, Công ty TNHH Minh Long I, Công ty TNHH một thành viên May mặc Bình Dương, Công ty CP Sáng Ban Mai, v.v...). Doanh thu của các doanh nghiệp tăng khá so với cùng kỳ. Trong đó, doanh nghiệp nhà nước ước tăng 23%, trong đó doanh thu xuất khẩu tăng 0,4%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 32,4%, trong đó doanh thu xuất khẩu tăng 32,2%; doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tăng 21,2%, trong đó doanh thu xuất khẩu tăng 31,2%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp quý I/2013 ước tăng 5,9% so với cùng kỳ. Trong đó: ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, và điều hòa không khí tăng 13,5%; ngành công nghiệp cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,0%; ngành chế biến, chế tạo tăng 5,9%; ngành khai khoáng tăng 4,5%.
Theo loại hình kinh tế: Giá trị sản xuất công nghiệp quý I năm 2013 ước thực hiện 29.906,0 tỷ đồng, tăng 9,1% so với cùng kỳ, đạt 18,2% so với kế hoạch năm. Trong đó: khu vực kinh tế trong nước ước thực hiện 9.544,7 tỷ đồng, tăng 7%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 20.361,3 tỷ đồng, tăng 10,1%.
Theo ngành công nghiệp: tăng cao nhất tại ngành công nghiệp chế biến (29.609 tỷ đồng, tăng 9,1% so với cùng kỳ); ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước (60 tỷ đồng, tăng 5,4%); tăng thấp nhất tại ngành công nghiệp khai thác ( 237 tỷ đồng, tăng 3,2%).
Theo giá so sánh năm 2010: Giá trị sản xuất công nghiệp quý I năm 2013 ước thực hiện 72.545 tỷ đồng, tăng 9,6% so với cùng kỳ. Trong đó: công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí 1.840 tỷ đồng, tăng 31,3%; công nghiệp chế biến, chế tạo 70.350 tỷ đồng, tăng 9,3%; công nghiệp cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 165 tỷ đồng, giảm 8%; công nghiệp khai khoáng 190 tỷ đồng, giảm 17,6%.
Trong quý, các mặt hàng sản xuất chủ yếu của tỉnh có sản lượng tăng cao như sắt thép (+38,5%); giày dép thể thao (+35%); xà phòng (+31,4%); sản phẩm bằng cao su, plastic (+20,3%; quần áo người lớn (+14,5%), v.v... Bên cạnh đó, có một số mặt hàng giảm mạnh như quạt điện (-59,5%); thuốc diệt cỏ (-23,8%); thuốc trừ sâu (-22,6%); thức ăn gia súc (-22,5%); v.v...
Riêng tháng 3/2013, tình hình sản xuất công nghiệp tháng tăng cao, tất cả các mặt hàng sản xuất chủ yếu của tỉnh đều tăng so với tháng trước là do các doanh nghiệp đã trở lại sản xuất kinh doanh bình thường và tháng 02/2013 sản xuất công nghiệp đạt các kết quả khá thấp do có thời gian nghỉ Tết nguyên đán dài.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 3/2013 ước tăng 55,4% so với tháng trước
Theo loại hình kinh tế: Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 3 năm 2013 ước thực hiện 10.276 tỷ đồng, tăng 27,2% so với tháng trước. Theo giá so sánh năm 2010: Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 3 năm 2013 ước thực hiện 26.373 tỷ đồng, tăng 47,9% so với tháng trước.
Với những dấu hiệu khả quan về tình hình sản xuất của các doanh nghiệp trong quý I/2013 sẽ là một khởi đầu thuận lợi để các doanh nghiệp nói riêng cũng như ngành Công Thương nói chung hoàn thành kế hoạch năm 2013.

 
Sở Công Thương tỉnh Bình Dương

Nhận diện kinh tế vĩ mô Quý 1 năm 2013

Kinh tế vĩ mô được nhận diện trên các góc độ khác nhau. Theo nghĩa rộng, kinh tế vĩ mô bao gồm cả tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, 3 khâu đột phá.

Về những mặt này, quý I/2013 đã đạt được một số kết quả tích cực, như lạm phát thấp hơn cùng kỳ năm trước, đã có xuất siêu...
Nếu theo nghĩa hẹp hơn, kinh tế vĩ mô được nhận diện qua các cân đối vĩ mô chủ yếu, trong điều kiện mới có thông tin của quý I, thì các cân đối kinh tế này được nhận diện qua các lĩnh vực chủ yếu sau đây:
Về vốn đầu tư (yếu tố của nhiều mối quan hệ lớn), kết quả được coi là tích cực với tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội/GDP giảm xuống (từ 41,9% trong năm 2010 xuống còn 36,4% trong năm 2011, còn 33,5% trong năm 2012 và còn 29,6% trong quý I/2013).
Đây là tiền đề để giảm chênh lệch giữa tổng vốn đầu tư và tích luỹ trong nước, giảm sức ép đối với lạm phát, nhập siêu, nợ quốc gia, đồng thời cũng là tiền đề để tăng trưởng kinh tế giảm sự lệ thuộc vào tăng vốn đầu tư, dần dần chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ số lượng, theo chiều rộng, sang chất lượng, theo chiều sâu.
Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn thuộc loại cao so với nhiều nước, trong khi mức giảm vừa qua còn có một phần do yêu cầu đầu tư bị co lại. Tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực nhà nước trong tổng vốn đầu tư xã hội đã giảm từ 38,7% trong thời kỳ 2006-2010 xuống 37,8% trong năm 2012 và xuống còn 36,9% trong quý I/2013. Đây là tiền đề để giảm bớt áp lực đối với bội chi ngân sách nhà nước, giảm bớt áp lực đối với nợ công, nợ Chính phủ, tăng thị phần cho đầu tư của khu vực ngoài nhà nước...
Kết quả của quý I cũng là tín hiệu để giảm hệ số ICOR năm 2013 so với năm trước, cải thiện dần hiệu quả đầu tư - yếu tố tiềm ẩn, nguyên nhân sâu xa để giảm lạm phát, giảm nhập siêu. Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư của toàn bộ nền kinh tế nói chung và của khu vực kinh tế nhà nước nói riêng còn thấp so với nhiều nước.
Về cán cân thương mại, chúng ta đã chuyển từ nhập siêu lớn trong nhiều năm trước sang xuất siêu từ tháng 5/2012 đến tháng 2/2013.
Trong 3 tháng đầu năm, Việt Nam vẫn xuất siêu gần nửa tỷ USD, mức xuất siêu lớn nhất so với cùng kỳ từ trước tới nay và là tín hiệu khả quan để cả năm 2013 tiếp tục xuất siêu hoặc nếu nhập siêu cũng không lớn như chỉ tiêu kế hoạch (dưới 8% kim ngạch xuất khẩu, tương đương với 10 tỷ USD). Nhờ đó, cán cân thương mại được thặng dư (theo ước tính của các chuyên gia, dự trữ ngoại hối tính đến nay đã đạt được 14 tuần nhập khẩu, vượt qua ranh giới an toàn tài chính theo thông lệ quốc tế).
Tình trạng găm giữ ngoại tệ giảm với 2 lý do chính: Tỷ giá đã được ổn định trong thời gian tương đối dài (năm 2011 chỉ tăng 2,24%, năm 2012 giảm 0,96%, quý I/2013 chỉ tăng 0,36%); lãi suất gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ thấp xa so với lãi suất tiết kiệm bằng VND, mặc dù lãi suất tiết kiệm bằng VND đã qua nhiều lần giảm. Nếu tính chung cả 2 yếu tố này thì việc giữ ngoại tệ là không có lợi. Tình trạng găm giữ ngoại tệ giảm tạo điều kiện để giảm tình trạng “đô la hoá” nền kinh tế kéo dài trong nhiều năm trước đó, đồng thời củng cố và nâng cao lòng tin đối với đồng nội tệ, một trong những yếu tố rất quan trọng góp phần kiềm chế lạm phát.
Tuy nhiên, trong tháng 3/2013 theo ước tính của Tổng cục Thống kê, chúng ta đã nhập siêu trở lại (300 triệu USD); việc xuất siêu trong thời gian qua bên cạnh những yếu tố tích cực có một phần quan trọng do nhu cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh và tiêu dùng bị co lại; có một phần do xuất khẩu đá quý, kim loại quý và sản phẩm chế tác quý I năm nay lên đến trên nửa tỷ USD, cao gấp gần 4 lần cùng kỳ năm trước. Do vậy việc xuất siêu chưa thật bền vững.
Mặc dù có nhiều cố gắng trong việc thu, chi ngân sách, do tỷ lệ của chi ngân sách cao hơn của thu ngân sách (22,3% so với 20,6%), nên tỷ lệ bội chi ngân sách so với dự toán năm đã lên đến 31,2%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ của tổng thu và của chi. So với cùng kỳ năm trước, trong khi tổng thu giảm (giảm 2,6%), tổng chi tăng (6%), nên mức bội chi đã cao gần gấp rưỡi cùng kỳ năm trước và tỷ lệ bội chi so với GDP đã ở mức 7,4%; tiến độ này đã cao hơn chỉ tiêu kế hoạch (4,8%) và đây là một cảnh báo quan trọng.
Cần lưu ý, tổng thu ngân sách tiếp tục gặp khó khăn do tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, do phải cắt giảm, giãn, hoãn nhiều khoản thu, do tốc độ tăng tồn kho tuy đã chậm lại nhưng vẫn còn cao và diễn ra trên nhiều ngành, lĩnh vực từ sản xuất, đến lưu thông, tiền tệ...
Về tái cơ cấu kinh tế (một dạng khác của cân đối kinh tế vĩ mô), 3 đề án thành phần (hệ thống tổ chức tín dụng, đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước) đã được phê duyệt và ngày 19/2/2013, Đề án tổng thể đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tái cơ cấu nền kinh tế đã được xác định là một nội dung trong mục tiêu tổng quát của năm nay.
Đây là vấn đề chiến lược, việc khởi động lại diễn ra trong điều kiện phải thực hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, nên kết quả đạt được chưa nhiều, có những nội dung còn chậm.
Do vậy, cần đẩy nhanh việc tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó có một số việc phải tập trung giải quyết. Đối với tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng, cần "tổng tấn công" nợ xấu, gắn với xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém; kiểm tra ngăn chặn tình trạng đầu tư chéo. Đối với đầu tư công, cần làm tốt hơn công tác quy hoạch tổng thể trên phạm vi cả nước và quy hoạch vùng, địa phương gắn với quy hoạch tổng thể; tránh dàn trải, phân tán; đẩy nhanh tiến độ thi công để nhanh chóng phát huy hiệu quả và tránh trượt giá. Đối với doanh nghiệp nhà nước, một mặt cần đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá, mặt khác cần nâng cao trình độ quản trị doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh; khẩn trương khắc phục tình trạng đầu tư ngoài ngành...
Năm 2013 là năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2011-2015, vừa phải thực hiện mục tiêu kép (lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn), vừa phải tạo điều kiện cho tăng trưởng bền vững, mà ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện của tăng trưởng bền vững.

 
Nguồn: chinhphu. vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét